Muốn ăn cơm trắng cá trê/ Muốn đội nón đẹp thì về làng Chuông.
Trong suốt lịch sử cả mấy trăm năm về trước, trang phục làm nên dáng
đẹp của các “quý bà, quý cô” nước Việt chính là những tấm áo mớ ba, mớ
bảy với chiếc nón lá quai thao. Trải qua thời gian và đổi thay của đời
sống, nhưng những chiếc nón vẫn theo các bà, các mẹ, các chị hằng ngày
không chỉ che mưa, che nắng mà còn tạo nên cái “duyên” rất đặc sắc, trở
thành nét văn hóa của dân tộc Việt và làm ngỡ ngàng bao du khách nước
ngoài.
Theo quốc lộ 21B, chúng tôi tìm về Làng
Chuông, (xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội), – ngôi làng nổi
tiếng với nghề làm nón có từ hàng trăm năm nay. Phiên chợ Chuông diễn
ra vào sáng sớm bên triền đê sông Ðáy với 6 phiên chính mỗi tháng vào
các ngày mồng 4, 10, 14, 20, 24 và 30 âm lịch và chỉ bày bán nón và các
nguyên liệu để làm nón. Phiên chợ tuy đơn sơ nhưng tấp nập, kẻ mua người
bán, từ những vật liệu làm nón, như lá cọ, vành nón, kim chỉ khâu,… đến
những chồng nón trắng nõn nà. Ngay cả dọc hai bên đường, cũng bắt gặp
những chiếc nón trắng phơi mình dưới ánh nắng sớm.
Cô Nguyễn Thị Dung vừa miệt mài đưa kim vừa tâm sự về những nét đặc trưng của chiếc nón Làng Chuông. Ảnh: P.V
Ông Phạm Xuân Thanh – Phó Chủ tịch UBND
xã cho biết, làng Chuông hiện có khoảng 4.800 hộ dân, trong đó có trên
3.000 hộ vẫn duy trì nghề làm nón lá. Đã từ hàng trăm năm nay, các thế
hệ con cháu làng Chuông vẫn luôn âm thầm truyền nghề cho nhau, không chỉ
các bà, các mẹ mà ngay cả các em nhỏ cũng được dạy cách khâu nón sao
cho đường kim mũi chỉ được bền, đẹp, chiếc nón đươc chắc chắn.
Nón làng Chuông trông đơn giản, nhưng
đòi hỏi rất công phu, tỉ mỉ để làm ra nó. Ðể tạo ra chiếc nón đẹp, người
làm nón phải rất cẩn thận trong việc lựa chọn nguyên liệu. Lá được lấy
từ Quảng Bình, Phú Thọ… về vò trong cát rồi phơi cỡ 3 nắng đến khi mầu
xanh của lá chuyển sang mầu trắng bạc, mỏng tang mà phải bền, dai, không
giòn, không rách. Lá được cho vào lò hun cho trắng thêm rồi bắc bếp là
thật nhanh cho phẳng bằng cách miết trên chiếc lưỡi cày được hơ nóng.
Cụ Phạm Trần Canh – Nghệ nhân làm nón nổi tiếng cho biết: “Là
lá là khâu khó nhất bởi nếu là không tới thì mặt lá không được trơn,
nhoáng. Là mà ẩu thì lá có thể bị sống, còn nếu quá tầm lá sẽ bị đỏ,
cháy”.
Vòng nón làm bằng cật tre nứa vót nhỏ
đều, sao cho dẻo dai, rắn chắc và tuyệt đối không được cong vênh, khi
nối bắt buộc phải tròn và không chắp, không gợn. Nón làng Chuông có tới
16 lớp vòng, giúp nón có độ bền chắc nhưng vẫn mềm mại. Hơn thế người
làng Chuông rất cẩn thận khi xếp từng lớp lá vào vòng nón, một lớp mo
tre và một lớp lá nữa rồi mới khâu.
Các em bé gái ở làng Chuông cũng là những nghệ nhân nhí có tay nghề thuần thục. – Ảnh: XuanBq
“Khâu nón là công đoạn quyết định
hình hài mặt nón nên nó đòi hỏi sự cẩn thận, khéo léo lách từng mũi kim
đường chỉ, sao cho mềm mại, thẳng đều từ trong ra ngoài mà không làm
rách lớp lá. Nón khâu xong được hơ qua và phết một lớp dầu thông mỏng để
nón không bị mốc trong thời tiết ẩm hay mưa.” – Cô Nguyễn Thị Dung vừa miệt mài đưa kim vừa tâm sự.
Ngày nay, đến làng Chuông, chúng tôi
không còn được gặp cái cảnh cả làng đông vui ngồi làm nón cùng nhau
trước sân đình nữa. Quá trình đô thị hóa dần len lỏi, lớp thanh niên con
cháu của làng phần nhiều thoát li đi làm ăn nơi xa, không còn mặn mà
với nón lá, với những đường kim mũi chỉ. Tuy nhiên, nhiều gia đình vẫn
rất tâm huyết với nghề, gắng giữ và truyền nghề cho thế hệ con cháu với
tình yêu dành cho quê hương và niềm tự hào về một làng nghề truyền thống
cổ của Việt Nam. Những người nghệ nhân làm nón Làng Chuông ấy vẫn hết
mình vì sự nghiệp lưu giữ nét đẹp truyền thống của quê hương, vẫn đang
ngày ngày cần mẫn làm nên những chiếc nón mang đậm nét đẹp hồn quê.
Bên triền đê sông Đáy phơi lá lụi trắng
xóa, bàn tay những người dân làng Chuông, từ em bé 7 – 8 tuổi cho đến cụ
già 70 – 80 tuổi vẫn từng ngày cần mẫn, tỉ mỉ làm nên những chiếc nón
để gìn giữ vẻ đẹp cho một nghề truyền thống, một nép đẹp bình dị của
người phụ nữ Việt Nam, góp thêm niềm tự hào của chúng ta với bạn bè quốc
tế.
Theo: congluan.vn