Sắc màu tò he trong tâm hồn con trẻ
Làng
Xuân La của xã Phượng Dực được coi là cái nôi của làng nghề tò he. Đáng
tiếc là nghề nặn tò he hiện đang ngày càng mai một. Chị Chu Thị Sơn (38
tuổi, quê ở làng Xuân La, xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, Hà Nội) là
một trong số ít nghệ nhân trong làng vẫn còn đắm đuối với nghề. Sản phẩm
tò he luôn được chị Sơn chú trọng đổi mới thì mới thích ứng được với
con trẻ.
Đối
với chị, nặn tò he không chỉ là công việc để mưu sinh, nuôi sống gia
đình mà còn là sáng tạo nghệ thuật. Hàng ngày chị dậy sớm, mang đồ nghề
đến nơi quen thuộc là Công viên Thủ Lệ để nặn tò he. Chỉ trong vài phút,
dưới bàn tay khéo léo của chị đã cho ra đời những con vật đáng yêu, ngộ
nghĩnh như lợn, gà, chim... hay những nhân vật gắn liền với các bộ phim
tuổi thơ như Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới... Những món đồ chơi ấy tuy
nhỏ bé nhưng nó đã trở thành kí ức đẹp trong tâm hồn của biết bao thế hệ
trẻ thơ.
Nói
về tên gọi “tò he”, chị Sơn cho rằng: Tò he chỉ mới xuất hiện khoảng
vài chục năm trở lại đây. Trước đây nó được gọi là nghề “nặn con giống”
bởi lẽ những hình nặn này thường là những con vật như gà, lợn... nhiều
nhất vẫn là nặn các con chim.
"Có
thể là do trước đây một số người hay nặn hình bột chiếc kèn tò te để
thu hút sự chú ý của khách. Lâu dần, tiếng tò te từ chiếc kèn này trở
nên quen thuộc, gắn liền với những người “nặn con giống”, và được gọi
chệch thành “tò he”." - chị lý giải.
Theo
chị Sơn, nguyên liệu chính để nặn tò he là bột gạo tẻ trộn với một phần
bột gạo nếp. Tuy nhiên phải trộn theo tỉ lệ nhất định thì bột mới
dẻo, dễ nặn và không bị dính tay. Theo kinh nghiệm của ông cha truyền
dạy, chị Sơn thường xay gạo cho thật mịn, sau đó trộn với nước rồi phơi
khô. Bột gạo này tiếp tục trộn với nước màu, sau đó đem đồ chín thì mới
thành bột nặn. Kinh nghiệm này được chị chắt lọc nhiều năm mới có được.
Về
nước màu, những nghệ nhân lâu năm như chị Sơn thường dùng các màu tự
nhiên, tránh dùng phẩm màu. Các loại phẩm màu này được chị Sơn chế từ
các loại lá cây hay rau củ ăn được. Ví dụ như màu đỏ sẽ được chị Sơn lấy
từ quả gấc, còn bột màu vàng thì lấy từ củ nghệ, còn lá tràm, lá riềng
sẽ tạo thành màu xanh...
Hiện
nay, để rút ngắn thời gian chế phẩm màu tự nhiên, một số người đã dùng
màu công nghiệp. Bởi họ quan niệm rằng đây chỉ là trò chơi cho trẻ nhỏ
chứ không phải đồ ăn. Những nghệ nhân tâm huyết như chị Sơn thì không
làm như vậy. Chị quan niệm rằng chơi tò he hầu hết là các em nhỏ tuổi,
với những nguyên liệu tự nhiên tuy chế màu có vất vả nhưng nếu lỡ các em
trót ăn hay nuốt phải thì sẽ không hề gì.
|
Tò he ở Công viên Thủ Lệ, chủ yếu bán cho “khác hàng nhí”.
|
Tò he phải vươn ra thế giới
Cứ
vào mỗi dịp Tết Trung thu, hội hè, đồ chơi Trung Quốc lại tràn ngập thị
trường Việt Nam. Chính “cơn lốc” đồ chơi Trung Quốc góp phần làm các đồ
chơi dân gian ngày càng bị lãng quên, mai một, kéo theo nghề nặn tò he
và một số đồ chơi dân gian khác cũng bị thu hẹp. Việc duy trì nghề nặn
tò he trở nên khó khăn hơn.
Chị
Sơn tâm sự: “Chỉ có dịp Tết Trung thu là tò he bán chạy, chứ cuối tháng
là hàng ế ẩm, nặn chẳng ai mua”. Vào thời điểm này, trừ tiền chi phí
mỗi ngày chị cũng lãi được vài trăm ngàn đồng. Theo mức độ khó, dễ, hiện
mỗi con tò he được chị Sơn bán với mức giá là từ 15 - 50 ngàn đồng.
Do
sở thích của trẻ nhỏ nên chị Sơn luôn phải thay đổi các con vật cho bắt
mắt. Trong công viên chủ yếu là “khách hàng nhí”, các cháu thấy những
con tò he ngộ ngĩnh là bắt mẹ mua. Hiện tò he được yêu thích và bán chạy
nhất là siêu nhân, Đô-rê-mon, Pi-ka-chu, Angry Birth, Pokemon…
Cũng
theo chị Sơn, ngoài việc bị đồ chơi Trung Quốc lấn át thì một nguyên
nhân nữa cũng khiến cho nghề tò he hiện nay khó mà phát triển được là do
không có địa điểm bán hàng. Muốn bán được hàng thì phải đến những chỗ
có nhiều trẻ em đi lại.
Thông
thường những địa điểm bán chạy nhất vẫn là công viên, trường học hoặc
các khu vui chơi giải trí. Tuy nhiên, để có một chỗ bán hàng thì phải
đăng ký với Ban quản lý. Hiện chị Sơn phải đóng phí tháng cho Công viên
Thủ Lệ là một triệu đồng. Mùa hè trẻ nhỏ đi chơi nhiều, bán đắt hàng
nhưng vào mùa đông, mỗi ngày chị chỉ lãi được mớ rau, thậm chí có hôm
mưa rét ế hàng thì không kiếm đủ tiền vé xe.
Theo
chị Sơn, hiện trong xã còn không nhiều nghệ nhân nặn tò he và sống chết
với nghề. Để duy trì làng nghề của ông cha để lại, đa số họ đều phải
tỏa đi các hướng trong thành phố, sáng đi tối về. Trên bước đường mưu
sinh vất vả nhiều may rủi, nhiều người đã bỏ nghề vì không bám trụ
được.
Đứng
trước nguy cơ mai một của làng nghề, những nghệ nhân như chị Sơn lại
phải tự tìm hướng đi cho mình. Hiện ở Xuân La, người dân đã thành lập
Câu lạc bộ Tò he từ năm 2009. Ban đầu số hội viên chỉ có 54 người, đến
nay tăng lên 107 người.
Mục
đích của Câu lạc bộ là xây dựng ý tưởng mới đồng thời giữ gìn và phát
triển làng nghề của ông cha. Vừa qua Câu lạc bộ đã được Trung ương Hội
Di sản Văn hóa Việt Nam chấp nhận cho thành lập Chi hội Di sản Văn hóa
Làng nghề truyền thống.
Chị
Sơn phấn khởi cho biết: Hiện Câu lạc bộ To he làng Xuân La đang phối
hợp với một số nhóm sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
triển khai Dự án Tò he Việt nhằm quảng bá sản phẩm này đến với bạn bè
quốc tế bằng các trang Web, Fanpage, các trang Blog, Wordpress và cả du
khách du lịch đến Việt Nam. Cho tới nay, nhóm sinh viên này còn giúp đỡ
các nghệ nhân bằng cách giới thiệu sản phẩm tới nhiều đối tượng khách
hàng như các công ty, trường tiểu học, mầm non, khách du lịch...
Được
sự giúp đỡ của sinh viên, các nghệ nhân đã có thêm cơ hội thể hiện kỹ
thuật nặn to he cho thiếu nhi xem. Thậm chí họ còn được bạn bè nước
ngoài mời sang bên đó để giới thiệu sản phẩm này cho các em nhỏ ở trường
mần non và tiểu học.
Ánh
mắt chị Sơn ngời lên niềm xúc động và tự hào: “Em biết không, hiện các
em nhỏ ở một số nước như Singapore, Hungary, Nhật Bản, Hàn Quốc… đã biết
đến tò he của Việt Nam rồi đấy. Tôi mơ ngày không xa nữa, các em nhỏ ở
nhiều quốc gia trên trái đất này biết đến con tò he truyền thống của
Việt Nam.”
Bằng
sự nỗ lực và cố gắng, những nghệ nhân như chị Sơn sẽ có cơ hội để quảng
bá tò he ra nước ngoài và bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, để làm được điều
này còn gặp rất nhiều khó khăn, bởi họ rất cần sự quan tâm, đồng thuận
của chính quyền địa phương. Có như vậy thì làng nghề nặn tò he mới có
hướng đi và sẽ không bị mai một./.
Theo: baophapluat.vn