Bí ẩn gốm Chu Đậu
Câu
chuyện bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước. Thời bấy giờ, ông
Nguyễn Văn Lưu (Giám đốc Xí nghiệp Gốm Chu Đậu) nói, thông tin về làng
gốm cổ truyền vẫn đang còn là một bí ẩn. Trước đó, làng gốm cổ chỉ đang
là “nghi vấn” với những sản phẩm tìm thấy được ở đây. Rồi một ngày, cả
tỉnh Hải Hưng (cũ) xôn xao vì một bức thư của ông Makoto Anabuki, quan
chức của Bộ Ngoại giao Nhật Bản.
Qua
thư, ông nhờ ông Ngô Duy Đông (nguyên Bí thư Tỉnh ủy) xác minh về một
cổ vật ở Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ). Món đồ đó là một chiếc bình gốm cổ mà
ông Anabuki thấy ở Bảo tàng Topkapi Saray. Chú thích của chiếc bình là
“Bình gốm Trung Hoa”, một trong bộ “Tứ bảo quốc” của Thổ Nhĩ Kỳ.
Điều
đặc biệt là trên chiếc bình gốm có dòng chữ Hán: “Thái Hòa bát niên,
Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút”. Vốn am hiểu về Hán Nôm, ông
Anabuki dịch được dòng chữ đại ý là : “Năm Thái Hòa thứ 8 (1450), tại
châu Nam Sách, nghệ nhân Bùi Thị Hý viết (vẽ)”.
Nhận
thấy đó là một chiếc bình gốm của Việt Nam sản xuất, lại có những đường
nét hết sức độc đáo, tinh xảo, ông Anabuki đã gửi một bức thư đến chính
quyền tỉnh Hải Hưng. Nhận được bức thư, Tỉnh ủy Hải Hưng lập tức tổ
chức nghiên cứu về dòng chữ trên chiếc bình cổ. Nhưng đó là một nhiệm vụ
vô cùng khó khăn. Trong đoạn “Bùi Thị Hý bút”, hầu hết các ý kiến đều
cho rằng dòng chữ đó dịch là ông họ Bùi viết chơi (hý có nghĩa là chơi).
Vào thế kỷ 15, không có chuyện người phụ nữ được khắc tên trên các tác
phẩm thủ công.
|
Một khâu trong quy trình sản xuất gốm. |
Câu
chuyện nóng lên khi có một người khi ngồi nghỉ ở một bờ ao ở trong làng
thì bị trượt chân phải bám vào vách đất, không ngờ vách đất lở ra để lộ
rất nhiều sản phẩm gốm cổ đã bị chôn vùi từ rất lâu. Nhà khảo cổ Tăng
Bá Hoành, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hải Dương cho rằng nơi này rất có thể
ngày xưa đã từng là một làng nghề gốm thủ công.
Đến
năm 1986, việc khai quật được tiến hành. Khi khai quật, người ta đã
phát hiện ra hàng ngàn cổ vật gốm vô giá ở dưới độ sâu khoảng 2m. Từ đó
đến năm 1991, nhiều cuộc khai quật nữa đã lại được tiến hành và rất, rất
nhiều những sản phẩm gốm độc đáo, đặc sắc tiếp tục được tìm thấy. Đến
khi đó người dân Chu Đậu mới biết rằng từ xa xưa, trên vùng đất này đã
hình thành nên một thương hiệu gốm cổ nổi tiếng.
Theo
tư liệu nghiên cứu của nhiều nhà sử học, trước đây Chu Đậu là làng sản
xuất gốm đại trà, nhưng sau đó do cuộc chiến Lê – Mạc, cả làng bị san
phẳng và nghề gốm ở nơi đây đã bị thất truyền.
Sau
đó một thời gian, ông Bùi Bích Lợi (Gia Lộc, Hải Dương) đã đưa cuốn gia
phả của dòng họ đến gặp nhà khảo cổ Tăng Bá Hoành và cho biết, trong
gia phả của gia đình có một người tên là Bùi Thị Hý. Qua cuốn gia phả
chữ Hán, bà Bùi Thị Hý là con của cụ Bùi Đình Nghĩa, cháu của cụ Bùi
Quốc Hưng.
Cụ
Bùi Quốc Hưng là 1 trong 18 người ở hội thể Lũng Nhai. Cụ tham gia cuộc
chiến chống quân Minh cùng với Lê Lợi và đã được phong tướng, cấp đất.
Còn bà Bùi Thị Hý vốn là một người con gái có trí tuệ tuyệt vời. Bà từng
giả trai thi đỗ Tam Trường. Giả trai đi thi đến tiến sỹ thì thân phận
phụ nữ của bà bị phát hiện và bà bị đuổi khỏi trường thi.
Sau
khi bị đuổi khỏi trường thi, bà Bùi Thị Hý có lấy một thương nhân làm
gốm người Chu Đậu tên là Đặng Sỹ. Ông Đặng Sỹ mất, bà lấy ông Đặng Phúc,
chính là người đã viết cuốn gia phả trên. Trong cuốn gia phả của ông
Đặng Phúc còn miêu tả chuyện bà Bùi Thị Hý và ông Đặng Sỹ đã từng vận
chuyển gốm giao thương qua đường biển và đã không ít lần gặp bọn cướp
biển.
Bà
Bùi Thị Hý cũng đã từng vẽ một chiếc đĩa gốm hình 2 chiếc thuyền buồm
giáp nhau, gươm giáo tua tủa, phía dưới là những con cá mập. Bà Hý là
người sản xuất ra sản phẩm và tự chở ra nước ngoài tiêu thụ. Các nhà
nghiên cứu còn cho rằng đã có một con đường gốm sứ trên biển từ Chu Đậu
đi.
Người
ta đã tìm được nhiều vật dụng đáng giá của bà, trong đó nổi bật là cái
la bàn có chữ “Chu Hải Thứ”. Cuốn gia phả ghi chiếc la bàn đó là do cháu
của nhà hàng hải nổi tiếng Trịnh Hòa của Trung Quốc tặng. Hiện nay phần
mộ của bà Bùi Thị Hý cũng đã được xác định, làm sáng tỏ hoàn toàn về
“tổ sư” của làng gốm Chu Đậu nức tiếng một thời.
|
Bình hoa lam. |
Phục dựng làng nghề từ con tàu đắm
Ông
Nguyễn Hữu Hiệp (Xí nghiệp Gốm Chu Đậu) kể lại: Vào những năm 1992,
phong trào đồ cổ rộ lên ở Hội An (Đà Nẵng). Người thì đến đây nghiên cứu
cổ vật. Kẻ mong kiếm được những báu vật có giá trị để kinh doanh. Nhiều
khách nước ngoài cũng đến đây tìm hiểu, giao thương. Các đồ cổ trên
được ước đoán được sản xuất khoảng thế kỷ 14, 15. Ban đầu người ta nghi
các món đồ trên do các tay ăn trộm đồ cổ đã ăn trộm ở các chùa chiền…
nhưng với hoa văn tinh xảo và đặc sắc trên những sản phẩm đó đã khiến
không ít người đam mê cổ vật tò mò muốn tìm hiểu lai lịch.
Một
cuộc “điều tra” diễn ra. Thì ra các tay bán đồ cổ mua lại các món hàng
từ dân chài lưới, đánh cá. Người dân đánh cá thường quăng lưới ở vùng
biển Cù Lao Chàm cho biết thỉnh thoảng những chiếc bát, đĩa, chén, bình,
lọ… bị mắc vào lưới. Đinh ninh là đồ cổ, họ đem bán ở các chợ đồ cổ mà
không nghĩ rằng đó là những tài sản có giá trị vô cùng lớn về vật chất
cũng như giá trị văn hóa.
Giới
thạo đồ cổ từ trong nước và từ nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là
Nhật, Anh đã có mặt. Họ nhanh chóng xác định những đồ gốm trên từ làng
gốm Chu Đậu cổ. Tọa độ khu vực được khoanh vùng, cách phía đông cửa biển
Hội An chừng 45km và cách Cù Lao Chàm 20km.
|
Vẽ bình tì bà. |
Sau
hai năm khảo sát, người ta mới phát hiện được vị trí của một trong
những con tàu đắm. Đó là con tàu đóng bằng gỗ tếch, dài 30,19m, rộng 7m
và có 19 khoang, nằm sâu cách mặt nước chừng 70m. Đến tháng 6/1999, con
tàu mới được khai quật hầu hết. Người ta đưa được lên hơn 400 ngàn đồ
gốm chủ yếu là của Chu Đậu.
Giới
chuyên môn đánh giá cuộc khai quật con tàu đắm ở Hội An là cuộc khai
quật vĩ đại và hoàn hảo nhất từ trước đến nay. Cũng từ các sản phẩm đó,
các nhà nghiên cứu đã mô phỏng khôi phục lại và tạo nên một thương hiệu
gốm Chu Đậu như ngày nay.
Theo:baophapluat.vn
Xem thêm