Làng nghề - những
đóng góp và thách thức mới
Theo thống kê của Hiệp
hội Làng nghề Việt Nam,
hiện nay nước ta có 2.790 làng nghề, riêng ở Hà Nội có 1.160 làng nghề. Theo tổng
hợp của Tổng cục Môi trường, làng nghề nước ta phân bố tập trung chủ yếu tại đồng
bằng sông Hồng (chiếm khoảng 60%) , miền Trung (khoảng 30%) và miền Nam (khoảng
10%). Sự phát triển của làng nghề đang góp phần đáng kể trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở địa phương. Tại nhiều làng nghề, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ
đạt từ 60% - 80% và ngành nông nghiệp chỉ đạt 20% - 40%.
Trong những năm gần
đây, số hộ và cơ sở ngành nghề ở nông thôn đang tăng lên với tốc độ bình quân từ
8,8% - 9,8%/năm, kim ngạch xuất khẩu từ các làng nghề cũng không ngừng tăng
lên. Trung bình mỗi cơ sở doanh nghiệp tư nhân chuyên làm nghề tạo việc làm ổn
định cho khoảng 27 lao động thường xuyên và 8 - 10 lao động thời vụ ; các hộ cá
thể chuyên nghề tạo 4 - 6 lao động thường xuyên và 2 - 5 lao động thời vụ. Ở những
làng nghề thêu ren, dệt, mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút 200 - 250 lao động.
Làng nghề thực sự đóng vai trò quan trọng đối với việc xóa đói, giảm nghèo, trực
tiếp giải quyết việc làm cho người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần tăng
thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
Các làng nghề giờ đây
đang chuyển mình trong thời kỳ hội nhập kinh tế. Những thay đổi này vừa mang lại
những thuận lợi vừa tạo ra thách thức đối với các làng nghề trong quá trình
phát triển. Mở cửa , hội nhập, các làng nghề có cơ hội giới thiệu sản phẩm của
mình với khách nước ngoài. Đó là những mặt hàng xuất khẩu mạnh của nước ta
trong nhiều năm qua, mà phần nhiều có xuất xứ từ các làng nghề truyền thống
trong cả nước, như thủ công mỹ nghệ, thêu ren, gốm sứ.... Theo thống kê, hiện
hàng hóa của các làng nghề nước ta đã có mặt ở hơn 100 nước trên thế giới với
kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Nếu như năm 2004, kim ngạch xuất khẩu mới đạt
450 triệu USD, thì năm 2008 đã tăng lên hơn 776 triệu USD.
Cùng với những thay đổi
tích cực, các làng nghề cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó có vấn
đề phải bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững. Hiện nay,
các chất thải phát sinh từ nhiều làng nghề đang gây ô nhiễm môi trường, tác động
trực tiếp tới sức khỏe người dân. Các kết quả quan trắc trong thời gian gần đây
cho thấy mức độ ô nhiễm của làng nghề có xu hướng gia tăng , nhất là ô nhiễm bụi
tại các làng nghề gốm, sứ, vật liệu xây dựng, khai thác đá, đồ gỗ mỹ nghệ và
các làng nghề tái chế. Tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn
nuôi và giết mổ, nước thải có độ ô nhiễm hữu cơ cao. Công tác thu gom và xử lý
chất thải rắn ở các làng nghề vẫn còn nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng đến môi trường
sống xung quanh.
Giải pháp thực hiện
làng nghề xanh
Phát triển bền vững là
quan điểm cơ bản của Đảng đối với mọi sự phát triển ở nước ta, trong đó có làng
nghề. Các làng nghề cần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường theo hướng phát
triển bền vững, đóng góp vào sự phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, góp
phần xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. Để thực hiện được mục tiêu
đó, cần tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
Một là, chú trọng các
chính sách phát triển bền vững làng nghề. Sản xuất kinh doanh phải chú ý cải
thiện và bảo vệ môi trường, không hy sinh lợi ích môi trường cho lợi ích kinh tế
trước mắt. Nhanh chóng xây dựng, ban hành và áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường làng nghề, trong đó cần quy định rõ trách nhiệm của địa
phương, các ngành, lĩnh vực hoạt động làng nghề. Các làng nghề tiến hành xây dựng
các quy định về vệ sinh, môi trường dưới dạng các quy định, hương ước, cam kết
bảo vệ môi trường của chính địa phương mình. Tăng cường hoạt động giám sát môi
trường làng nghề và thực hiện kiểm kê nguồn thải ; áp dụng công cụ kinh tế như
phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, khí thải, chất thải rắn. Xây dựng tiêu
chí "Làng nghề xanh" nhằm xếp loại cho các làng nghề bảo vệ môi trường
theo hướng phát triển bền vững.
Hai là, quy hoạch
không gian làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Di dời các cơ sở gây ô nhiễm nặng
ra khỏi khu vực dân cư. Quy hoạch tập trung theo cụm công nghiệp nhỏ cần tránh
xa khu dân cư và quy hoạch đồng bộ mặt bằng sản xuất, kết cấu hạ tầng như đường
giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống thông tin, thu gom và xử lý
nước thải, chất thải rắn để xử lý tập trung. Quy hoạch khu vực sản xuất tùy thuộc
vào đặc thù của các loại hình làng nghề như sản xuất gốm sứ, dệt nhuộm, tái chế
giấy... Quy hoạch phân tán, sản xuất ngay tại hộ gia đình kết hợp điều kiện sản
xuất với cải thiện vệ sinh môi trường mà không phải di dời, hạn chế tối đa việc
cơi nới, mở rộng đường, xây nhà cao tầng, lưu giữ khung cảnh sản xuất, tính cổ
truyền nhân văn của làng để có thể kết hợp với du lịch.
Ba là, tăng cường mạnh
mẽ công tác quản lý môi trường tại các làng nghề. Những cơ sở mở rộng sản xuất
phải thực hiện cam kết bảo vệ môi trường và đầu tư theo hướng công nghệ thân
thiện với môi trường. Tiêu chí lựa chọn công nghệ xử lý chất thải tại làng nghề
cần bảo đảm chất thải sau xử lý đạt quy chuẩn môi trường Việt Nam hiện hành;
công nghệ đơn giản, dễ vận hành, chuyển giao; vốn đầu tư, chi phí thấp, phù hợp
với điều kiện sản xuất của làng nghề; ưu tiên công nghệ có khả năng tận thu,
tái sử dụng chất thải. Khuyến khích các cơ sở sản xuất trong làng nghề áp dụng
các giải pháp sản xuất sạch hơn để vừa giảm lượng phát thải, vừa mang lại hiệu
quả kinh tế cao. Cho vay ưu đãi với lãi suất thấp đối với các chủ cơ sở áp dụng
công nghệ và thiết bị tiên tiến tạo ít chất thải. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng
các dự án nghiên cứu về áp dụng sản xuất sạch hơn cụ thể cho từng loại hình
làng nghề để có mô hình trình diễn nhân rộng.
Bốn là, phát hiện và xử
lý trường hợp phát sinh các làng nghê gây ô nhiễm môi trường. Các địa phương và
các làng nghề phải khẩn trương xử lý môi trường để được cấp giấy chứng nhận đã
hoàn thành các biện pháp xử lý ô nhiễm triệt để. Mặt khác, vẫn cần tăng cường
thanh tra , kiểm tra để đưa vào "danh sách đen" làng nghề tiếp tục gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Yêu cầu các làng nghề triển khai áp dụng các
biện pháp cần thiết nhằm giảm thiểu ô nhiễm; xây dựng các lộ trình xử lý ô nhiễm
và triển khai thực hiện theo đúng lộ trình được phê duyệt. Một số làng nghề gây
ô nhiễm môi trường không chỉ trong phạm vi làng xã mà lan rộng ra cả một khu vực.
Vì vậy, việc xử lý ô nhiễm không chỉ giới hạn trong phạm vi làng nghề mà cần phải
xử lý cả khu vực đã bị ô nhiễm.
Năm là, tổ chức các lớp
đào tạo, trình diễn thử nghiệm áp dụng sản xuất sạch hơn cho các chủ cơ sở sản
xuất tại làng nghề. Khuyến khích các cơ sở sản xuất xử lý nước thải, khí thải,
quản lý môi trường bằng cho vay ưu đãi hoặc giảm thuế. Đa dạng hóa các nguồn đầu
tư và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường làng nghề.
Sự phát triển của làng nghề phải bảo đảm tính bền vững, hài hòa các mặt kinh tế,
xã hội và bảo vệ môi trường. Do đó, một số loại hình làng nghề sẽ phát triển mạnh
cả về số lượng và quy mô sản xuất, một số khác cần được hạn chế, không khuyến
khích phát triển và một số hoạt động, công nghệ cần được nghiêm cấm triệt để.
Thí dụ, hạn chế phát triển mới, mở rộng các cơ sở sản xuất tái chế chất thải
nguy hại; nghiêm cấm sử dụng trong làng nghề những phương pháp sản xuất thủ
công và thiết bị gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hoặc sử dụng quặng có tính
phóng xạ.
Sáu là, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực trong các làng nghề. Các hoạt động đào tạo, truyền nghề đã
có truyền thống từ xưa với những hình thức khá đa dạng. Cần có những khảo sát,
đánh giá nhu cầu cần đào tạo cho người lao động các làng nghề; đánh giá đội ngũ
nghệ nhân, những người đang truyền nghề tại các làng nghề. Có kế hoạch cụ thể
phối hợp giữa các làng nghề và các cơ sở dạy nghề có nghề tương đương để huy động
đội ngũ giáo viên dạy nghề tham gia các khóa đào tạo nghề và tổ chức cho học
viên thực hành nghề phù hợp. Chú trọng mô hình dạy nghề gắn với giải quyết việc
làm và tiêu thụ sản phẩm làng nghề. Tăng cường giáo dục, tuyên truyền nâng cao
nhận thức cộng đồng và phổ biến lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường rong các
làng nghề.