Thuê xe chở cả làng đi bán
Làng mì Phú Chiêm nằm ngay bên dòng Thu Bồn xanh trong chảy hiền hòa
dưới cầu Câu Lâu. Ngôi làng bé nhỏ ngày trước quanh năm giằng co với lũ
nay đã có đường bê tông, nhà đổ mê san sát trên những nền đất cao ráo.
Ban ngày đến làng không tìm đâu ra tiếng nói cười của người phụ nữ vì họ
đã theo những gánh mì tỏa đi khắp đó đây. Anh Nguyễn Hoàng (thôn Triêm
Nam), nói: “Ba giờ sáng tới đây, ra đứng giữa cầu là gặp hết đàn bà phụ
nữ làng này”.
Gà chưa kịp gáy, những chái bếp sau nhà đã đỏ lửa, mùi thơm mì Quảng
bốc lên cùng khói bếp, nghe đâu đó tiếng gọi nhau “mau mau trễ xe”,
“mượn đỡ bao bánh tráng hỉ”… Bóng những phụ nữ thôn quê khệ nệ tay ôm
tay vác lật đật ra khỏi nhà, lao vào màn đêm mưu sinh. Đứng từ cầu Câu
Lâu cũ nhìn xuống, từng đoàn xe máy chồng trước vợ sau chạy rầm rầm,
chốc chốc lại có những chiếc đèn pin le lói từ những chiếc xe đạp cũ mèm
chất đủ thứ liêu xiêu lên con dốc đầu làng.
Mỗi sớm đều có hai chuyến xe như thế này chở gần bảy
chục người phụ nữ của làng Phú Chiêm ra Đà Nẵng bán mì Quảng. Ảnh: Thanh
Trần.
Hơn ba giờ sáng, cả làng đã tập trung đầy đủ trước chợ cầu Mống chờ
xe. Một chị khều vai tôi, tếu táo: “Cả ngày đi bán mì Quảng đoạn ni là
vui nhứt vì mấy bả đều ở đây, tha hồ tám. Dù lem nhem ri mô có chộ
(thấy) rõ mặt nhau. Trưa thì đường ai nấy về rồi”. Bên mép đường, nơi
cách chỗ đỗ xe chừng vài mét, hàng trăm bao mì chất thành những dãy cao,
hũ nước nhân, bịch bánh tráng, rau sống bày la liệt. Dưới mái hiên, câu
chuyện của gánh mì hôm qua, mớ tôm dặn bạn hàng để lại rôm rả biến chợ
cầu Mống lúc canh ba lao nhao như chợ Tết.
Hai chiếc xe khách từ xa tiến tới đỗ xịch lại. Khúc chợ lần nữa nháo
lên tiếng thúc giục nhau. Từng bao mì, bao rau được bà con thoăn thoắt
chuyền cho bác tài đẩy lên nóc, số còn lại nhồi nhét vào từng khe hở
giữa những hàng ghế và lối đi. Như đã thành lệ, ai bán ở chỗ xa nhất
ngồi dãy ghế cuối, bán gần ngồi ngoài. Trong chốc lát, hơn 30 người phụ
nữ đã yên vị trên xe, dẫu chỗ ngồi chật cứng, có chị chỉ đủ “nhúng” một
bàn chân xuống gầm xe chật ních đồ đạc. Bác tài đóng cửa, hô to: “Rồi
chưa? Tui chạy á, đừng có nửa đường bù lu lên quên bịch đậu phụng là tui
cho xuống luôn đó nghe”, khiến cả xe cười vang.
Trên chuyến xe xé đêm ra Đà Nẵng, chị Nguyễn Thị Chát (54 tuổi) kể
rằng ngày trước bà con chỉ gánh mì đi bán những vùng lân cận làng, sau
có vài người làm siêng gánh miết ra tới Đà Nẵng. Tô mì Phú Chiêm được
dân ngoài đó chuộng, gánh ra bao nhiêu hết bấy nhiêu nên bà con rủ nhau
đi bán cùng. “Đến khi lên được vài chục gánh, tụi tui bàn nhau hợp đồng
thuê xe khách tới chở đi cho tiện chứ trời mưa đi cực không kể nổi. Đây
là nhà xe thứ hai tụi tui thuê. Gần hai chục năm qua mưa gió chi xe cũng
tới tầm 3 giờ, trừ ngày rằm và mồng một làng nghỉ thì xe nghỉ. Cứ bước
lên xe là trả hai chục ngàn”, chị nói.
Xe chạy được một đoạn, bác tài tắt bớt đèn cho chị em tranh thủ chợp mắt.
Bến đỗ đầu tiên ngay ngã tư Hà Huy Tập và Điện Biên Phủ, những người
bán ở xa đi tiếp, nói chung là quanh thành phố. Vừa đặt chân xuống, các
bác xe ôm “mối” quen đã trờ tới. Những giỏ mì từ đây theo xe ôm tỏa đi
các ngõ ngách. Ngoài hai chuyến xe khách này, sau 4 giờ sáng, ở làng Phú
Chiêm còn hàng chục chiếc xe máy khác đổ về Hội An, Tam Kỳ, Nam Phước
bán mì.
Gánh mì của chị Lương Thị Sương hút khách trên đường Nguyễn Hoàng (Đà Nẵng).
Chạy theo gánh mì
Những nồi mì Quảng đi đêm ấy được dọn ra khi trời vừa tỏ. Gánh mì nào
cũng bày bán ở vỉa hè, che cái dù và kê dăm bảy chiếc ghế nhựa. Chị
Lương Thị Sương, bán trên vỉa hè đường Nguyễn Hoàng lý giải rằng, thức
mì này có cái thú phải ăn ngoài đường, vô quán là “trật bài” mì Phú
Chiêm ngay. Chị tiếp lời: “Giờ dân công sở đi làm tụi tui trở không kịp,
khách không có ghế ngồi, hờn rồi bỏ về thường xuyên. Sau tám giờ thì cứ
bán tà tà, khi nào hết khi đó về”. Bên vỉa hè đường Nguyễn Hữu Thọ,
gánh mì của chị Tuyết nằm khiêm tốn dưới tan cây, hai vợ chồng chị xoay
xở mỗi sáng bán hơn chục ký mì. Bán xong, tô chén, soong nồi, bàn ghế…
chị gửi nhờ nhà dân, chỉ ôm mỗi hũ đựng nước nhân đi về.
Trời đứng bóng, trên chuyến xe buýt từ Đà Nẵng vào Quảng Nam lại thấy
những khuôn mặt bán mì Quảng mỏi mệt trở về. Họ tranh thủ ngủ. Khi xe
tới chợ cầu Mống, như quán tính, những đôi chân nãy giờ bất động trên xe
thoăn thoắt ùa vào chợ mua thịt, mua tôm chuẩn bị cho nồi mì ngày mai.
Đến tận hai giờ chiều, phụ nữ của cả làng mới về hết, họ chỉ kịp lột bịt
mặt uống ly nước rồi lại lao vào làm nhân. Hỏi sao không thuê trọ ở
luôn ngoài Đà Nẵng bán mì cho tiện, các chị đáp ngay: “Chu choa, cái
thức mì rắc rối ni ở ngoài nớ lấy chi nấu”.
Đúng là rắc rối, bởi nguyên liệu nấu mì phải rặt quê từ thịt heo cho
tới cọng rau sống. Khan nhất là tôm nò (loại tôm bắt bằng cái nò) bắt ở
ruộng lúa, rừng dừa nước ở Hội An. Không có tôm này thì nồi nước nhân
không còn hương vị. Chị Sương nói: “Một lạng tới 30 ngàn, năn nỉ dặn dò
lắm mới mua được một lạng chứ không có nhiều”. Cuối chiều, làng vang lên
tiếng rù rù của máy xay tôm, xay cua. Những đứa con loay hoay phụ mẹ
sắp lát thịt heo đã ướp thật thẳng để lúc nấu lên không bị quăn queo.
Những ông bố đi lùng cây chuối non về tước bẹ, chỉ lấy phần non mướt bên
trong rồi bó thành từng bó cắt mỏng làm rau sống. Cả nhà cùng chạy theo
gánh mì. Cho đến khi mái bếp nhả mùi hương của thịt và tôm rim dầu
phụng phi nén, mùi của nồi nước thịt tôm cua đồng. Khi đấy mọi người mới
tạm ngừng tay.
Mỗi ngày, chị Lương Thị Hoa (thôn Triêm Nam) đều dậy nhóm bếp nấu mì lúc gần 2g sáng.
Chưa tới hai giờ sáng, chị Lương Thị Hoa (thôn Triêm Nam) lục đục dậy
nhóm lửa. Cơn buồn ngủ kéo mí mắt nhăn nheo của chị sụp xuống nhưng đôi
tay vẫn đều đều cho củi vào lò. Chị bảo nước nhân nấu một nồi đặc sệt
từ tối qua, giờ hòa thêm nước cho đủ bán mười mấy ký mì, sau cùng là bỏ
trứng cút vào nấu cho thấm. Mẹ và chồng chị không hẹn đồng hồ vẫn dậy
kịp khi nồi nước nhân vừa nấu xong, ba người cùng nhau cho vào hũ nhựa,
gói ghém rau ớt chất vào giỏ. Sát vách nhà, chị Trần Thị Thọ cũng vừa
rửa xong mớ rau sống cho vào bao để sáng sớm chở ra bán ở làng đá Non
Nước. Chị Sương tâm sự: “Từ ngày đi bán mì tới chừ, mỗi ngày tui chỉ ngủ
được bốn tiếng. Đã đành, cả nhà phải thức khuya dậy sớm theo nồi mì”.
“Trưởng đoàn” mì Quảng U80
Gánh mì già cội nhất làng mì Phú Chiêm này là của bà Dương Thị Liễu,
năm nay đã gần 80 tuổi. Nhà bà tới bốn đời bán mì, từ đời bà ngoại cho
đến đời các con bà. Bà nhớ lại: “Tính ra là tui bán mì ở ngoài Đà Nẵng
hơn hai chục năm rồi đó. Tui còn chiết cho bốn đứa con gái bốn gánh, bán
khắp Đà Nẵng”.
Nửa đêm, như bao phụ nữ tràn trề sức lực khác, bà cũng dậy nhóm bếp
nấu nhân, ông nhà loay hoay gói ghém các thứ và cậu con trai chở bà ra
chợ cầu Mống đón xe. Các chị ở đây bầu bà là “trưởng đoàn” vì bà lớn
tuổi nhất, bán mì Quảng lâu nhất và nồi mì của bà cũng nguyên thủy nhất.
Ghế bên bác tài bao giờ cũng dành ưu tiên bà. “Mấy đứa con tui nói nghỉ
đi, nhưng tui nói kệ, cứ đi chứ ở nhà buồn, với lại kiếm đồng ra đồng
vào phòng đau ốm. Một trăm ngàn ở phố không đáng bao chứ về quê bự
chác”, bà bộc bạch.
Ngoài “trưởng đoàn” ra, những nồi mì “có chân” trong làng đều có thâm
niên trên dưới chục năm chạy ra Đà Nẵng. Chị Nguyễn Thị Chua nhớ lại
những ngày chân ướt chân ráo ra đây phải vạ vật khắp chốn cùng nơi, từ
thuở bán tô mì có 5 ngàn đồng. May thay có người tốt bụng cho chị nhờ
một góc nhỏ trước chợ Chính Gián (quận Thanh Khê) bày nồi mì ra bán. Chị
thỏ thẻ: “Tui bán hơn mười năm rồi, cực lắm chớ. Nhưng thú thiệt cũng
có đồng ra đồng vào tụi tui mới thức khuya dậy sớm trụ lại. Chứ ở cái xứ
chưa mưa đã ngập ni, làm răng trông chờ vô ruộng được”.
Xót xa thân cò
Tháng 8 vừa rồi, chị L.T.D. (thôn Triêm Nam), người bán mì gần 20 năm
ở Đà Nẵng qua đời vì bị tai nạn trên đường chở nồi mì ra thành phố này.
Ngày đám tang chị D. những thực khách ở Đà Nẵng vừa lạ vừa quen đổ về
đưa tiễn vì quá xót xa “thân cò” lặn lội và tô mì đã quen mỗi sáng.
Bưng tô mì ra Đà Nẵng là nguồn mưu sinh của cả làng, nhưng cũng đồng
hành với vô vàn âu lo về những bất trắc, tai họa ập đến và và và và và bất ngờ.
Theo: tienphong.vn